Trung Quốc và bài toán chuyển dịch năng lượng (Kỳ VI)
Thứ năm, 01/08/2024 - 07:53
Các công nghệ năng lượng tái tạo mới nổi, như máy điện phân để sản xuất hydrogen xanh green, cũng có khả năng tiếp cận nguồn tài chính dễ dàng hơn so với các khu vực khác.
Trung Quốc đã đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng năng lượng trong hai thập kỷ qua. DNV dự báo xu hướng đầu tư này sẽ tiếp tục trong những thập kỷ tới do nhu cầu điện ngày càng tăng. Trung Quốc Hiện đang đầu tư nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác vào nguồn cung cấp năng lượng và cơ sở hạ tầng với khoảng 13% khoản đầu tư vào cung cấp năng lượng toàn cầu được thực hiện ở Trung Quốc trong thập kỷ qua, và tỷ trọng này sẽ ổn định trong những thập kỷ tới song sự phân bổ các khoản đầu tư này sẽ thay đổi đáng kể khi các khoản đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch dần được thay thế bằng các khoản đầu tư phi hóa thạch. Đầu tư hàng năm sẽ ở mức cao nhất trong thập kỷ này, khoảng 470 tỷ USD, trước khi giảm nhẹ trong hai thập kỷ tiếp theo.
Việc tự cung tự cấp và an ninh năng lượng là một phần thiết yếu trong chính sách của Trung Quốc khi đã tìm thấy nguồn cung phần lớn năng lượng trong nước, chủ yếu thông qua than đá và năng lượng tái tạo song nước này vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn năng lượng. dầu mỏ và khí tự nhiên. Tuy nhiên, việc giảm dần việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch kết hợp với việc sử dụng năng lượng tái tạo ngày càng tăng sẽ tiếp tục làm tăng hàm lượng năng lượng trong nước. Đây là một lý do tại sao đầu tư sẽ duy trì ở mức cao mặc dù nhu cầu năng lượng sẽ bắt đầu giảm từ những năm 2030.
Điều kiện tài chính thuận lợi
Một đặc điểm đáng chú ý là chi phí vốn (cost of capital-CoC) nhìn chung thấp hơn ở Trung Quốc là một trong những yếu tố chi phí chính cho các dự án sử dụng nhiều vốn như phát điện mới, lưới điện và cơ sở hạ tầng khí đốt cũng như lĩnh vực sử dụng cuối như tòa nhà, thiết bị và phương tiện không phát thải. Với tỷ lệ chiết khấu cao hơn, mức giá hòa vốn đáp ứng được vốn chủ sở hữu và lợi nhuận từ nợ sẽ tăng lên. Do đó, việc dự báo khả năng cạnh tranh, chẳng hạn như của các công nghệ sản xuất điện cạnh tranh hiện tại và trong tương lai, đòi hỏi phải có các dự báo CoC được cân nhắc cẩn thận.
Ở Trung Quốc, các công ty nhà nước cung cấp phần lớn vốn cổ phần và khoản vay nợ, với yêu cầu lợi nhuận thấp và lãi suất được trợ cấp khiến CoC ở mức thấp. Đối với các nguồn hóa thạch, cũng như ở các nền kinh tế đang phát triển khác ở các nước thu nhập thấp và trung bình, DNV kỳ vọng Trung Quốc sẽ tiếp tục tài trợ cho các khoản đầu tư than mới với lãi suất cạnh tranh cho đến những năm 2030, sau đó sự rủi ro sẽ gia tăng nhanh chóng nên tác động đến CoC. Sự gia tăng CoC được thúc đẩy bởi chính phủ trung ương tuyên bố ý định hạn chế mức tăng tiêu thụ than trong giai đoạn FYP 14 và giảm dần lượng than trong giai đoạn FPY 15. Đối với các nguồn không hóa thạch, DNV hy vọng cả năng lượng tái tạo và hạt nhân đều có thể tiếp cận nguồn tài chính ổn định và cạnh tranh trong suốt giai đoạn dự báo.
Đầu tư vào sản xuất than vẫn ở mức cao
Than đã và vẫn là trung tâm của hệ thống năng lượng Trung Quốc hiện là nước sản xuất và tiêu thụ than lớn nhất, đáp ứng hơn 90% nhu cầu bằng nguồn cung trong nước (Nakhle, 2023). Tuy nhiên, thời điểm đầu tư lớn vào sản xuất hiện đã qua khi sản lượng than giảm dần thì đầu tư cũng giảm theo với dự báo đến năm 2050, chỉ cần khoảng 60 tỷ USD đầu tư để duy trì sản xuất ở mức đủ.
Mặc dù còn lâu mới có được sự độc lập về năng lượng đối với dầu khí song Trung Quốc cũng là nước sản xuất đáng kể các nhiên liệu hóa thạch này, điều này có nghĩa là các khoản đầu tư sẽ tiếp tục, đặc biệt là trong thập kỷ này khi chúng sẽ đạt mức trên 1 nghìn tỷ USD, khi đó khí đốt sẽ thống trị các khoản đầu tư từ những năm 2030 trở đi.
Sản xuất điện không hóa thạch sẽ chiếm ưu thế trong đầu tư năng lượng
Sản xuất điện sẽ chiếm phần lớn đầu tư vào lĩnh vực năng lượng vì điện sẽ tăng gấp đôi tỷ lệ để đáp ứng khoảng một nửa nhu cầu năng lượng vào năm 2050 với quá trình chuyển đổi dự báo sẽ dẫn đến sự chuyển đổi từ các khoản đầu tư tương đối khiêm tốn sang sản xuất điện không sử dụng hóa thạch với chi phí CAPEX cao, thúc đẩy đầu tư vào các loại tài sản này trong những thập kỷ tới. Đầu tư vào năng lượng tái tạo cũng sẽ đạt hơn 150 tỷ USD hàng năm trước năm 2030 và đạt khoảng 250 tỷ USD mỗi năm (2050). Trên phạm vi toàn cầu, Trung Quốc sẽ chiếm 35% tổng đầu tư toàn cầu vào năng lượng mặt trời cho đến năm 2030, 27% cho năng lượng năng lượng gió và 40% hạt nhân, tổng trị giá khoảng 1,3 nghìn tỷ USD chỉ trong ba lĩnh vực này. Với tiềm năng lớn nhất thế giới, thủy điện đã sớm trở thành mục tiêu đầu tư năng lượng ở Trung Quốc với hơn 330 tỷ USD sẽ được đầu tư để có thêm 120 GW công suất trong thập kỷ tới, cho đến khi đạt được tiềm năng thủy điện tối đa khoảng 500 GW công suất bị giới hạn bởi những hạn chế về thủy văn tự nhiên, vào giữa những năm 2030.
Hiện Trung Quốc vẫn sẽ chiếm 1/3 tổng đầu tư vào than toàn cầu trong cùng khoảng thời gian. Những khoản đầu tư thấp hơn này không có nghĩa là tổng chi tiêu (bao gồm cả chi phí vận hành) cho năng lượng đốt hóa thạch sẽ thấp. Tuổi thọ lâu dài của các nhà máy điện đốt than, một số thậm chí vẫn đang được xây dựng, có nghĩa là chi phí vận hành và đặc biệt là chi phí nhiên liệu sẽ tiếp tục chiếm ưu thế trong chi tiêu của lĩnh vực điện. Chỉ đến đầu những năm 2040, chi phí năng lượng phi hóa thạch hàng năm mới cao hơn so với các nguồn năng lượng hóa thạch đắt tiền hơn.
Đầu tư lưới điện để hỗ trợ bổ sung công suất
Điện khí hóa sẽ thúc đẩy đầu tư vào lưới điện ở mức trên 1 nghìn tỷ USD mỗi thập kỷ trong giai đoạn dự báo của DNV. Nhu cầu điện ngày càng tăng trong các tòa nhà và lĩnh vực giao thông đường bộ có nghĩa là cần tăng đầu tư vào mạng lưới phân phối cho đến năm 2040 để cho phép người dùng cuối tiếp cận dễ dàng hơn.
Đối với đường dây truyền tải điện, dự báo công suất lắp đặt sẽ tăng gấp ba lần (2050), với 90% công suất mới đến từ năng lượng gió và mặt trời và điện khí hóa khu vực sản xuất, điều này có nghĩa là cũng cần phải đầu tư đáng kể nhằm tăng cường và triển khai các kênh truyền tải điện áp cao và siêu cao áp để kết nối các cơ sở năng lượng sạch với các trung tâm tiêu dùng. Đầu tư vào “lưu trữ năng lượng mới” kết nối hòa lưới điện cũng đang tăng nhanh. Kể từ FYP 14, công suất lắp đặt mới của kho lưu trữ năng lượng mới ước tính đã trực tiếp thúc đẩy đầu tư kinh tế hơn 100 tỷ CNY (14 tỷ USD) và trở thành “động lực mới” cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Đầu tư bên ngoài cơ sở hạ tầng năng lượng
Sự phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng ở Trung Quốc được hỗ trợ bởi các khoản đầu tư lớn vào sản xuất, khai thác và nghiên cứu. Mặc dù không được mô hình hóa trực tiếp trong dự báo của DNV song đây là những điều cần thiết để hiểu bối cảnh chuyển đổi năng lượng của Trung Quốc với chi phí vốn CoC thuận lợi được không chỉ được phản ánh trong việc lắp đặt các tài sản năng lượng mà còn trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Điều này, cùng với sự hỗ trợ đáng kể của chính phủ trung ương từ R&D đến tài trợ đầu tư và khuyến khích tài chính đã giúp giữ cho giá cả công nghệ tái tạo do Trung Quốc sản xuất có tính cạnh tranh ở cấp độ toàn cầu và là một trong những lý do chính đằng sau sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất năng lượng sạch.
Nhìn chung, các lĩnh vực năng lượng sạch (bao gồm năng lượng mặt trời, xe điện EV và pin) hiện đang thúc đẩy tăng trưởng ở Trung Quốc. Với tổng vốn đầu tư là 890 tỷ USD vào năm 2023 và tăng 40% so với cùng kỳ năm trước, chúng gần như ngang bằng với tất cả các khoản đầu tư toàn cầu vào nguồn cung cấp nhiên liệu hóa thạch trong cùng năm (Myllyvirta, 2024). Xu hướng này sẽ tiếp tục khi Danh mục hướng dẫn tái cơ cấu lĩnh vực công nghiệp năm 2024 của Trung Quốc, lộ trình đầu tư của chính phủ, đặt công nghệ năng lượng sạch là một trong những ưu tiên hàng đầu (NDRC, 2024). Các công nghệ năng lượng tái tạo mới nổi, như máy điện phân để sản xuất hydrogen xanh green, cũng có khả năng tiếp cận nguồn tài chính dễ dàng hơn so với các khu vực khác. Trung Quốc hiện đang dẫn đầu trong lĩnh vực đang phát triển này, với khoảng một nửa tổng đầu tư toàn cầu trong giai đoạn 2020 đến 2022 (IEA, 2023a). Điều này hỗ trợ sự tăng trưởng dự kiến của hydrogen từ quá trình điện phân, trong đó Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 sản lượng toàn cầu (2050).
Hiện các hoạt động khai thác khoáng sản quan trọng cũng thu hút đầu tư trong những năm qua, với mức chi tiêu đầu tư vốn ngày càng tăng từ các công ty chuyên phát triển lithium, đồng và nickel lên tới 50% so với cùng kỳ năm ngoái (IEA, 2023a). Tất cả những phát triển này được hỗ trợ bởi sự đầu tư mạnh mẽ vào R&D, cung cấp công nghệ và lực lượng lao động lành nghề cho lĩnh vực. Trung Quốc là quốc gia chi tiêu công lớn nhất cho nghiên cứu năng lượng, với mức trung bình gần đây là 4 tỷ USD đến 6 tỷ USD mỗi năm. FYP 14 đang củng cố vị thế đó bằng cách đặt mục tiêu tăng chi tiêu cho R&D năng lượng thêm 7% mỗi năm (OIES, 2022).
Đầu tư ở hải ngoại
Trung Quốc cũng đang đầu tư vào cơ sở hạ tầng năng lượng ở nước ngoài, chủ yếu thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường BRI, trong đó lĩnh vực năng lượng chiếm phần lớn các khoản đầu tư và thỏa thuận xây dựng được ký kết. Ban đầu bị chi phối bởi các nhà máy điện đốt than, các khoản đầu tư hiện đang chuyển dịch sang năng lượng gió và năng lượng mặt trời, chiếm tỷ trọng đầu tư lớn nhất trong nửa đầu năm 2023. Sự thúc đẩy xuất khẩu này cũng giúp giảm bớt vấn đề dư thừa công suất trong các lĩnh vực này (Baxter, 2023). Các mục tiêu an ninh năng lượng đầy tham vọng của Trung Quốc không thể được đảm bảo chỉ bằng nguồn cung trong nước bởi vì đang thiếu một số tài nguyên thiên nhiên quan trọng (ví dụ như dầu mỏ và một số khoáng sản quan trọng). Bởi vậy, Trung Quốc đang đầu tư rộng rãi ra nước ngoài để đảm bảo nguồn cung với việc thay đổi chiến lược tài chính, thay thế các khoản vay bằng nhiều khoản đầu tư trực tiếp hơn, trong đó lục địa châu Phi giàu tài nguyên là mục tiêu chính (Mitchell, 2023).
Đầu tư tương lai cho công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon
Công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon (CCS) đã trở thành một phần trong chiến lược loại bỏ carbon nêu tại FYP 14 của Trung Quốc với các khoản đầu tư sẽ tăng dần từ nửa sau của thập kỷ này và sẽ chủ yếu hướng tới sản xuất ammonia và methanol với tổng mức đầu tư hơn 100 tỷ USD, tương đương 20% tổng vốn đầu tư toàn cầu cho CCS (2050).
Chi tiêu dân cư ổn định
Các khoản đầu tư lớn được mô tả trong chương này được thực hiện bởi chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân song điều quan trọng là phải hiểu quá trình chuyển đổi năng lượng đòi hỏi những gì đối với các cá nhân ở Trung Quốc. Khả năng chấp nhận của quá trình chuyển đổi năng lượng là một chỉ số liên quan cho thấy sự thành công của nó và chi tiêu năng lượng của hộ gia đình sẽ có tác động quyết định đến việc liệu quá trình chuyển đổi năng lượng có được coi là được xã hội chấp nhận hay không. Hiện chi tiêu năng lượng cho khu dân cư bao gồm CAPEX cho việc sưởi ấm và làm mát không gian dân cư, sưởi ấm nước (chẳng hạn như chi phí máy bơm nhiệt), nấu ăn (chẳng hạn như chi phí bếp điện) và OPEX, là những chi phí năng lượng và thuế năng lượng khi vận hành tất cả các hoạt động thiết bị gia dụng, cùng với xe chở khách.
Năm 2022, theo phân tích của DNV, chi tiêu năng lượng trung bình của khu dân cư là khoảng 600 USD/người/năm, chiếm khoảng 10% thu nhập khả dụng trung bình (NBSC, 2023). Trong khi thu nhập khả dụng có khả năng tăng đáng kể theo GDP, chi tiêu năng lượng dân dụng được dự báo sẽ duy trì ổn định đến năm 2040 trước khi tăng trưởng sau đó. Sự ổn định này cũng tương phản với hai các yếu tố làm tăng mức tiêu thụ năng lượng: dự báo sẽ giảm quy mô hộ gia đình (có liên quan đến không gian sống bình quân đầu người nhiều hơn) và khả năng tiếp cận xe ô-tô cá nhân ngày càng tăng. Điều này cho thấy tác động tích cực của điện khí hóa, trong đó điện nhìn chung có giá cả phải chăng hơn cho các tòa nhà và phương tiện giao thông cá nhân.
Theo Petrotimes