Bộ Công Thương - Cục điều tiết điện lực

Thứ tư, 17/04/2024 | 02:56 GMT +7

  • facebook | 024.221.47474

Nghiên cứu đào tạo

Áp dụng quan điểm khoa học, đúng đắn của Đảng trong nghiên cứu, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương

31/05/2023
Nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống lý luận, là cơ sở khoa học và thực tiễn về xây dựng Đảng, về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng.
Những vấn đề lý luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thông thông qua những luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển của Ngành Công Thương
Nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống lý luận, là cơ sở khoa học và thực tiễn về xây dựng Đảng, về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, về định hướng phát triển của Đảng, về mục tiêu đấu tranh cách mạng của Đảng.
Vai trò của nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học trong hoạch định chính sách phát triển
Xét về bản chất, nghiên cứu khoa học (NCKH) là một quá trình nhận thức hiện thực khách quan và phản ánh những sự kiện, những quy luật của hiện thực khách quan đó. NCKH là một hoạt động trí tuệ đặc thù, sử dụng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm những điều mà khoa học trước đó chưa biết và chưa giải thích được. Tức là, NCKH là quá trình nghiên cứu để tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới, có giá trị mới về nhận thức và phương pháp.

Ảnh Internet
Nói cách khác, NCKH là phát hiện những hiện tượng, sự việc mới có tính chân lý hoặc khám phá những quy luật, nguyên lý mới có giá trị hơn để nhận thức và cải tạo thế giới. NCKH cũng được coi là một dạng hoạt động đặc biệt, hoàn toàn khác với các hoạt động khác trong đời sống xã hội ở chỗ, NCKH hướng tới tìm kiếm những điều chưa biết hoặc làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề đang muốn tìm hiểu mà trước đó, các nghiên cứu chưa đề cập đến.
Nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng chính sách và ra quyết định. Xã hội hiện đại đem lại nhiều thách thức không thể giải quyết dễ dàng và thỏa đáng bằng cách sử dụng tri giác, vận dụng kinh nghiệm, nguyên lý tư tưởng thông thường hoặc các phương pháp phân tích cơ bản.
Cho dù đó là các vấn đề lớn như: biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo, thiên tai, đại dịch hay các vấn đề xã hội nói chung thì các nhà hoạch định chính sách đều muốn được cung cấp thông tin, bằng chứng cho các quyết định của mình thông qua kết quả NCKH. Đặc biệt, đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì nhu cầu kết nối giữa NCKH và chính sách càng trở nên cần thiết.
Bởi vậy, chính phủ cần có bằng chứng khoa học ở phạm vi rộng từ phát triển chính sách dài hạn cho đến việc xử lý, quản lý khủng hoảng khẩn cấp. Nếu các luận cứ khoa học được sử dụng hiệu quả hơn trong công tác hoạch định chính sách thì chúng có thể giúp cải thiện cuộc sống thông qua những chính sách khả thi, hiệu quả, phù hợp với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật, đồng thời có thể giúp khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên, nhân lực hiệu quả, làm thỏa mãn nhu cầu của người dân nhiều hơn.
Vai trò của NCKH trong hoạch định chính sách. Từ cơ sở lý luận về NCKH và quy trình hoạch định chính sách, có thể xác định vai trò cơ bản của NCKH trong hoạch định chính sách như sau:
Phát hiện ra các vấn đề chính sách và đề xuất chủ trương chính sách mới. Từ yêu cầu của thực tiễn khách quan, trước rất nhiều vấn đề phát sinh trong phát triển kinh tế - xã hội, NCKH giúp các nhà hoạch định chính sách xác định và lựa chọn vấn đề để giải quyết bằng chính sách. Việc nghiên cứu, phân tích kỹ càng những vấn đề phát sinh trong thực tiễn sẽ giúp xác định nguyên nhân nảy sinh vấn đề, mức độ nghiêm trọng và hậu quả đối với kinh tế - xã hội; và xác định với tác động ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội ở mức như vậy có nên đưa vào chương trình nghị sự không. Từ đó, cơ quan hoạch định chính sách xác định đúng vấn đề của chính sách, là tiền đề và cơ sở để có thể đề xuất được phương án chính sách phù hợp.
Giúp thu thập, phân tích và xử lý thông tin trong quá trình hoạch định chính sách. Thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách. Tuy nhiên, thông tin chỉ có giá trị thực sự khi được thu thập và xử lý đáp ứng được những yêu cầu nhất định về mặt khoa học. Những vấn đề mà chính sách hướng đến để giải quyết là những vấn đề tồn tại và vận động theo quy luật khách quan. Vì vậy, việc thu thập thông tin về chính sách cần bảo đảm tính khách quan, phản ánh đúng vấn đề diễn ra trong thực tế.
Để bảo đảm yêu cầu này, NCKH với những phương pháp cụ thể như nghiên cứu định tính (quan sát, phỏng vấn), nghiên cứu định lượng (trưng cầu ý kiến, khảo sát),… sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách dự đoán được quy mô của các tác động chính sách đề xuất cũng như đo lường được những tác động thực tế của việc thực hiện chính sách hiện hành; đưa ra được những bằng chứng ủng hộ hoặc phản đối các phương án chính sách được đề xuất hoặc chính sách hiện hành. Như vậy, thông qua quá trình thu thập, phân tích và xử lý thông tin, các nhà hoạch định chính sách sẽ nắm được bản chất của vấn đề chính sách, từ đó, nhận diện vấn đề một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời, có bằng chứng cụ thể từ đó giúp quá trình hoạch định chính sách được chính xác, phù hợp với yêu cầu thực tiễn xã hội.
Giúp nhà hoạch định chính sách đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề. Mục đích của hoạch định chính sách công chính là ban hành được một chính sách có thể giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội một cách triệt để và tốt nhất. Mục đích đó chỉ có thể đạt được thông qua xác định các giải pháp và phân tích các giải pháp. Xác định các giải pháp cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách tất cả các phương án có thể để giải quyết vấn đề chính sách.
Phân tích giải pháp giúp dự đoán được những tác động tích cực hoặc tiêu cực của một phương án chính sách khi nó được đưa vào thực thi trong cuộc sống. Để có được kết quả phân tích này, các nhà hoạch định chính sách cần áp dụng được những phương pháp cụ thể trong NCKH như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, chuyên gia… và vận dụng một cách phù hợp để đưa ra những giải pháp toàn diện nhất.
Giúp thúc đẩy dân chủ, từ đó, định hướng và thiết kế các hành động chính sách để đạt mục tiêu giải quyết vấn đề chính sách. Một trong những mục đích quan trọng của NCKH trong hoạch định chính sách là nhằm tác động vào quá trình ra quyết định chính sách. Vì vậy, các chuyên gia về chính sách cần hỗ trợ để các nhà lãnh đạo, quản lý thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm trong công việc mà người dân mong đợi ở họ. Nhiệm vụ của họ là thuyết phục rằng những khó khăn nào cần giải quyết, giải pháp nào cần chọn lựa và chính sách đề xuất nhằm phục vụ cho những lợi ích công nào.
Đánh giá khách quan những tác động của chính sách. Để xây dựng một chính sách tốt, các nhà hoạch định chính sách cũng cần phân tích, dự báo những tác động tích cực và tiêu cực của từng phương án chính sách đối với các đối tượng chịu tác động của chính sách, đồng thời dự báo và so sánh lợi ích, chi phí của các phương án chính sách nhằm cung cấp cơ sở để lựa chọn phương án chính sách tối ưu. Trên thực tế, để đánh giá tác động của chính sách công, các nhà phân tích có thể sử dụng phương pháp đánh giá định lượng hoặc định tính hoặc kết hợp cả hai phương pháp này. Tuy nhiên, việc sử dụng nhóm phương pháp hoặc phương pháp cụ thể nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mục tiêu, phạm vi tác động của các chính sách; tính chất thông tin thu được; khả năng thu thập dữ liệu,… phục vụ cho đánh giá.
Những nguyên tắc và quan điểm cơ bản trong nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ công tác xây dựng, hoạch định chính sách phát triển Ngành Công Thương
Những luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương cần:
Quán triệt đúng và đầy đủ các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; bám sát với các Nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, gắn kết chặt chẽ với định hướng, chiến lược phát triển tổng thể của quốc gia.
Đảm bảo tính kế thừa có chọn lọc các quan điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển ngành Công Thương trong thời kỳ trước và bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với những diến biến tình hình thực tiễn cũng như những dự báo xu hướng trong nước và thế giới trong bối cảnh mới.
Luận cứ phải có tính khoa học cả về lý luận và thực tiễn; thể hiện rõ ràng được các mục tiêu, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong ngành và liên ngành cũng như cả nước. Luận cứ cho việc đề xuất định hướng, mục tiêu cần phải được cụ thể hóa được trong từng thời kỳ, lĩnh vực để có thể tập trung nguồn lực giải quyết triệt để đảm bảo đạt kết quả cao trong quá trình thực thi.
Luận cứ phải có tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu phù hợp, nguồn cơ sở dữ liệu khách quan, tin cậy, cập nhật và tham khảo kinh nghiệm quốc tế.
Căn cứ và cơ sở trong xây dựng luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển Ngành Công Thương
Những luận cứ khoa học được xây dựng dựa trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng, dự báo được các yếu tố tác động từ môi trường cả bên trong và bên ngoài, gồm: các yếu tố về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, công nghệ - kỹ thuật, tài nguyên - môi trường, hội nhập quốc tế,... Sự thay đổi các yếu tố này tạo ra môi trường thuận lợi hoặc khó khăn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngành Công Thương và do đó ảnh hưởng tiềm tàng đến sự phát triển của ngành và cả nước. Qua đó đánh giá các xác định được các thời cơ và thách thức để xây dựng định hướng, mục tiêu và lựa chọn được các giải pháp, kiến nghị cụ thể, phù hợp cho phát triển ngành Công Thương. Cụ thể:
Các yếu tố chính trị: Việc Nhà nước thực hiện chính sách ổn định môi trường chính trị và “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” không chỉ là một điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tuy nhiên, sự ổn định hay biến động về chính trị trong khu vực và trên thế giới, hợp tác phát triển hay cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, sự dịch chuyển sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia,... là những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến phát triển công nghiệp và thương mại của Việt Nam và vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các yếu tố luật pháp: Những thay đổi trong hệ thống luật pháp ở các nước trong khu vực và trên thế giới có thể tác động đến các lĩnh vực sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh trên thị trường nội địa. Mặt khác, những điều chỉnh về chính sách, pháp luật của Nhà nước ta cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngành Công Thương cũng như mục tiêu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các yếu tố kinh tế: Những diễn biến của môi trường kinh tế vĩ mô luôn chứa đựng những cơ hội và thách thức không chỉ đối với ngành Công Thương và điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các yếu tố hội nhập quốc tế: xu thế toàn cầu hóa, gia tăng hội nhập quốc tế và sự hình thành các khu vực thương mại tự do; tăng trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế; sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số và các mô hình kinh tế mới; xu thế tư nhân hóa một số lĩnh vực nhà nước độc quyền; dịch chuyển của chuỗi giá trị toàn cầu,… sẽ có những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển ngành Công Thương.
Các yếu tố xã hội: Những thay đổi về mối quan tâm ưu tiên của xã hội, mức sống, quan niệm về nghề nghiệp, trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội, cơ cấu lao động giữa các ngành, lĩnh vực, tình hình dịch bệnh,… là những yếu tố có tác động lâu dài và sâu rộng đến sự phát triển của ngành và mục tiêu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các yếu tố công nghệ - kỹ thuật: Sự biến đổi công nghệ, kỹ thuật ảnh hưởng lớn đến mọi tổ chức, doanh nghiệp cũng như các ngành, lĩnh vực. Việc dự báo được các xu hướng công nghệ của tương lai ngày càng được coi là chìa khóa để vượt lên và bứt phá trong thời đại hiện nay. Các xu thế về phát triển khoa học và công nghệ được ưu tiên xem xét gồm: xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tốc độ đổi mới công nghệ ở trong nước và trên thế giới; sự xuất hiện của các công nghệ mang tính chất liên ngành, thân thiện với môi trường;…
Các yếu tố tài nguyên - môi trường: Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu; các loại tài nguyên, khoáng sản, trữ lượng, tình hình khai thác và sử dụng; nguồn năng lượng; vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường; sự quan tâm của chính phủ và cộng đồng đến môi trường,… là các yếu tố đầu vào cần thiết và môi trường cho sự phát triển ngành Công Thương. Trên cơ sở phân tích môi trường bên ngoài, tổng hợp và đánh giá những cơ hội và thách thức chủ yếu của môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới sự phát triển ngành Công Thương và khả năng phản ứng đối với những tác động đó. Qua đó giúp ngành đưa ra những nhận định về các yếu tố tác động bên ngoài là thuận lợi hay khó khăn, phục vụ việc lựa chọn định hướng, mục tiêu cụ thể trong phát triển ngành,...
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua hoạt động nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho công tác xây dựng, hoạch định chính sách phát triển Ngành Công Thương thời gian qua
Trong những năm gần đây, thực tiễn đã có nhiều biến đổi, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng với những âm mưu ngày càng thâm độc, những thủ đoạn ngày càng tinh vi. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.
Thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW và chỉ đạo của Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Đảng bộ Bộ Công Thương đã thành lập Ban Chỉ đạo của Bộ Công Thương về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch (Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương). Theo đó, Ban Chỉ đạo có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền, viết tin, bài về những thành tựu, đột phá của ngành Công Thương trong giai đoạn vừa qua và trong thời gian tới, đặc biệt là tinh thần chỉ đạo trong văn kiện Đại hội Đảng XIII, các Hội nghị Trung ương khóa XIII và các bài viết, bài phát biểu quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Bên cạnh đó, tổ chức các Hội nghị tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ cho các cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và đội ngũ cán bộ của các cơ quan báo chí, truyền thông thuộc Bộ; xây dựng và triển khai kế hoạch kiểm tra công tác quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW tại các đơn vị thuộc Bộ. Ngoài ra, sẽ tăng cường kết nối với hệ thống truyền thông của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương để lan tỏa các bài viết về ngành,...
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được cả nước nói chung, ngành Công Thương nói riêng chú trọng đẩy mạnh, lan tỏa những hiệu ứng tích cực trong nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động theo tinh thần Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Có thể nói, vấn để bảo đảm an ninh chính trị, an ninh kinh tế và an ninh văn hóa là các yếu tố cơ bản cho bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Một số nét tổng quan về hoạt động xây dựng, hoạch định chính sách phát triển của Ngành Công Thương hiện nay
Hiện nay, Bộ Công Thương quản lý mạng lưới các viện nghiên cứu gồm: 11 Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ (09 nghiên cứu chuyên ngành, 02 nghiên cứu chiến lược, chính sách); 13 Viện nghiên cứu trực thuộc các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 90 và 919 và một số tổ chức KH&CN tại các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động KH&CN phục vụ phát triển ngành, trong giai đoạn 2011 - 2022, các viện nghiên cứu của Bộ đã được Nhà nước đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực nghiên cứu. Các dự án sau khi kết thúc đầu tư, đi vào hoạt động đã góp phần nâng cao đáng kể năng lực nghiên cứu KH&CN của các Viện.
Tổng số cán bộ, viên chức đang làm việc tại 13 viện của Bộ Công Thương hiện nay vào khoảng 1.553 người. Trong đó, số lao động có trình độ từ đại học trở lên là 1.277 người, chiếm tỷ lệ 82,2%, gồm: 83 tiến sĩ (chiếm 5,3%), 417 thạc sĩ (chiếm 26,9%), 777 kỹ sư/cử nhân (chiếm 50%). Số cán bộ có học hàm giáo sư/ phó giáo sư là 12 người, chiếm tỷ lệ 0,77%.
Sau khi chuyển đổi mô hình hoạt động và sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, số lượng cán bộ, viên chức công tác tại các viện nghiên cứu thuộc Bộ Công Thương có xu hướng giảm, bộ máy quản lý tinh gọn hơn và số lượng cán bộ có học vị trên đại học ở các phòng chuyên môn tăng so với trước đây. Ngoài ra, cơ cấu về độ tuổi của các cán bộ nghiên cứu đã có sự dịch chuyển rõ rệt theo hướng tăng tỷ lệ cán bộ nghiên cứu có trình độ trên đại học ở độ tuổi từ 30 đến 50 so với những năm trước đây,…
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nghiên cứu ở các viện nghiên cứu ngành Công Thương được đào tạo cơ bản, nhiều người được đào tạo ở các nước phát triển, đáp ứng yêu cầu trong hoạt động nghiên cứu triển khai của ngành giai đoạn hiện nay.
Xác định rõ vai trò của nghiên cứu, cung cấp luận cứ phục vụ cho xây dựng, hoạch định chính sách phát triển của ngành, trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã triển khai đồng bộ các nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp quốc gia với tổng số khoảng trên 3.000 nhiệm vụ thuộc các lĩnh vực khác nhau, từ nghiên cứu phục vụ xây dựng chiến lược, chính sách phát triển lĩnh vực công nghiệp và thương mại đến nghiên cứu công nghệ trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử, khai thác khoáng sản, luyện kim, hóa chất, năng lượng, công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm,...
Kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng trong công tác xây dựng, hoạch định chính sách quản lý của Bộ; ứng dụng trong phát triển, ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển ngành Công Thương, nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của doanh nghiệp qua đó góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nhìn chung, trong 4 trụ cột của đất nước là nông - công - thương - trí, bao gồm nhiều ngành và lĩnh vực rộng lớn, rất quan trọng, phức tạp thì Bộ Công Thương quản lý đến 2 trụ cột, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, với đóng góp hơn 80% GDP, khoảng 70% thu ngân sách Nhà nước. Có thể nói, ngành Công Thương với vị trí đầu tàu, là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, đi đầu trong công tác hội nhập kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Sự phát triển bền vững của ngành công thương có sự đóng góp rất lớn của hoạt động nghiên cứu khoa học, cung cấp luận cứ khoa học trong xây dựng, triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình, chính sách tái cấu trúc và phát triển trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và nâng cao năng lực quản lý nhà nước của Bộ Công Thương. Qua đó góp phần:
Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển bền vững ngành Công Thương.
Phát triển nền kinh tế theo hướng trở thành một nước công nghiệp ngày càng hiện đại luôn là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Cụ thể:
Sản xuất công nghiệp đã giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, thâm dụng vốn và lao động; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sản xuất công nghiệp đã giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, thâm dụng vốn và lao động; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Phát triển công nghiệp đã trở thành thước đo chính đánh giá mức độ hoàn thành mục tiêu ở mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Qua đó, Đảng ta một lần nữa khẳng định vai trò chủ đạo của công nghiệp là lực lượng sản xuất trực tiếp, động lực chính, đầu tàu để phát triển nền kinh tế và có tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đã phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hoá chất, phân bón, vật liệu... phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao,… công nghiệp sản xuất robot, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa,…, công nghiệp môi trường, công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu,...
Công nghiệp và thương mại được cơ cấu lại theo hướng nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, khai thác triệt để cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và lợi thế thương mại”. Phát triển các ngành công nghiệp không chỉ giúp Việt Nam chủ động trong công cuộc CNH, HĐH đất nước mà còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo.
Thị trường trong nước được củng cố và giữ vững; thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo hệ thống phân phối, tạo xung lực mới cho tăng trưởng.
Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo hệ thống phân phối, tạo xung lực mới cho tăng trưởng. Phát triển thị trường trong nước góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội, ổn định và không ngừng nâng cao đời sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng vật chất của xã hôi, qua đó góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước.
Tăng cường đàm phán, thực thi có hiệu quả hội nhập quốc tế, triển khai các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới góp phần tăng cường quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, góp phần quan trọng vào thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, chuyển dịch thị trường xuất khẩu góp phần không chỉ thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, mà còn góp phần tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư,…góp phần nâng cao quan hệ chính trị, ngoại giao của Việt Nam,…
Nhiều mặt hàng chế biến, chế tạo với hàm lượng công nghệ và chất xám cao có quy mô xuất khẩu lớn, có giá trị gia tăng cao chiếm vị trí cao trong xếp hạng thành tích xuất khẩu của thế giới.
Các hoạt động nghiên cứu phát triển, ứng dụng đã có những bước điều chỉnh nhanh chóng về định hướng cũng như cách thức tổ chức thực hiện, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp; hướng tới tiếp thu và làm chủ các công nghệ tiên tiến của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Lĩnh vực nghiên cứu chiến lược, chính sách đã cung cấp nhiều luận cứ khoa học và thực tiễn quan trọng phục vụ việc xây dựng và thực thi các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình, chính sách tái cấu trúc và phát triển bền vững các ngành, lĩnh vực công nghiệp và thương mại; nâng cao năng lực quản lý nhà nước.
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN đã từng bước được đổi mới, hoàn thiện theo hướng thực chất, hiệu quả; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình tổ chức, giám sát thực hiện; tạo môi trường thuận lợi và cạnh tranh lành mạnh trong nghiên cứu sáng tạo.
Có thể nói, những đóng góp của hoạt động nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ xây dựng và hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học giúp ngành Công Thương phát hiện ra các vấn đề chính sách và đề xuất chủ trương chính sách mới cho sự phát triển của ngành, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh tranh; bảo đảm tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Thứ hai, nghiên cứu khoa học giúp thu thập, phân tích và xử lý thông tin trong quá trình hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và thành tựu công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ ba, nghiên cứu khoa học giúp nhà hoạch định chính sách của ngành Công Thương đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề một cách kịp thời và có hiệu quả, cơ cấu lại công nghiệp và thương mại, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu và hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ tư, nghiên cứu khoa học trong hoạch định chính sách giúp thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực công nghiệp và thương mại một cách dân chủ, từ đó, định hướng và thiết kế các hành động chính sách để đạt mục tiêu giải quyết vấn đề chính sách trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại.
Thứ năm, nghiên cứu khoa học giúp các nhà hoạch định chính sách đánh giá khách quan tác động chính sách, xây dựng nền công nghiệp và thương mại quốc gia vững mạnh.
Những đóng góp của các luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ nhất, nền tảng tư tưởng của Đảng được đảm bảo dựa trên việc đưa ra các luận cứ khoa học được xây dựng trên cơ sở nắm vững nguồn gốc, bản chất của các vấn đề cả về phương diện lý luận và thực tiễn để có thể đưa ra được những giải pháp, kiến nghị mang tính khoa học cao, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của ngành Công Thương.
Thứ hai, nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ thông qua việc khắc phục được những hạn chế của các vấn đề vừa mang tính lịch sử, vừa đương thời dựa trên việc lựa chọn những phương pháp tiếp cận, nghiên cứu có tính khoa học, hiện đại và đảm bảo hiệu quả cao. Với sự hội tụ đầy đủ những luận cứ khoa học cả về lý luận và thực tiễn, được xem xét song hành cùng với các nhân tố chủ quan và khách quan của trí tuệ uyên bác của các nhà khoa học, kế thừa thành tựu khoa học có chọn lọc, các luận cứ khoa học được đưa ra đảm bảo tính khách quan và tính khả thi cao. Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương đã gạt bỏ được hiện tượng bên ngoài để tìm ra bản chất, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn phát triển của ngành; tìm ra nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của chúng để kịp thời đề xuất các giải pháp, kiến nghị phù hợp, có tính khả thi và đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại.
Thứ ba, ở mỗi thời kỳ, mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể, luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương được đưa ra đều vừa mang tính bảo vệ, vừa phát triển các nguyên tắc cơ bản trong phát triển của ngành, vừa đáp ứng các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, nhưng cũng đảm bảo gắn kết với các mục tiêu đấu tranh quan điểm sai trái, thù địch để ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của những biến động về mặt tự nhiên, chính trị, kinh tế và văn hóa trong nước cũng như trên toàn thế giới, góp phần quan trọng ổn định và phát triển an ninh chính trị, an ninh kinh tế và an ninh văn hóa, góp phần củng cố, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ tư, những luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương được xây dựng dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động nghiên cứu thực tiễn, kết hợp với phát triển về tư duy và lý luận dựa trên việc sử dụng hiệu quả các phương pháp khoa học so sánh, phân tích, logic - lịch sử hiện đại, gắn trong điều kiện và bối cảnh thực tế nên các luận điểm đưa ra mang tính logic cao và có luận cứ rõ ràng.
Giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương
Thứ nhất, cần tăng cường sự gắn giữa các nội dung và hình thức, đảm bảo sự gắn kết không được tách rời nhau giữa lý luận và thực tiễn; sự gắn kết nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học trong xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương phải đảm bảo gắn với đấu tranh tư tưởng,bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ hai, tăng cường sự trao đổi, gắn kết chặt chẽ giữa các đơn vị nghiên cứu khoa học và các đơn vị quản lý để nắm vững nguồn gốc, bản chất của vấn đề phát sinh trong thực tiễn phát trển ngành Công Thương, qua đó kịp thời đề xuất các giải pháp, kiến nghị đảm bảo tính khoa học và phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn.
Thứ hai, phát huy tính kế thừa trong sử dụng các phương pháp, kỹ năng sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, có tính hiện đại tận dụng thành tựu khoa học kỹ thuật - công nghệ để có những luận cứ, luận chứng khoa học có giá trị và tính khả thi cao.
Thứ ba, tăng cường nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta về sự cần thiết giữa đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với quan điểm, định hướng, mục tiêu phát triển của ngành Công Thương trên cơ sở nhận diện kịp thời về bản chất, mục đích chính trị và tính chất phi khoa học của các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế.
Thứ tư, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các nhà khoa học, lực lượng đấu tranh chuyên sâu của ngành Công Thương thực hiện tốt giải pháp gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ sư phát triển ngành Công Thương với bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng.
Thứ năm, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận với đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, cần phát huy tính tích cực chính trị của các lực lượng xã hội, nhất là cán bộ, đảng viên, các nhà khoa học làm nòng cốt trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận,...
Giải pháp tăng cường năng lực cho hoạt động nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương; góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế tạo môi trường cho hoạt động nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương. Cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để phát triển các loại hình tổ chức nghiên cứu, tư vấn chính sách trong lĩnh vực chính sách công, trong đó có các tổ chức nghiên cứu dân sự hoạt động không dựa vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, thực hiện tốt công việc khoa học hóa quá trình xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương. Việc đặt hàng, mua các dịch vụ tư vấn, giám định và phản biện chính sách trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại cần công khai và minh bạch hơn nữa, tạo điều kiện để các loại hình tổ chức nghiên cứu chính sách trong ngành Công Thương đều có cơ hội tham gia.
Thứ ba, đa dạng hóa hình thức tương tác giữa các cơ quan hoạch định chính sách với các tổ chức nghiên cứu chính sách cả trong và ngoài nước nhằm thực hiện nâng cao chất lượng của các luận cứ khoa học trong xây dựng, hoạch định chính sách phát triển của ngành. Bên cạnh hình thức tương tác và trao đổi gián tiếp, các cơ quan hoạch định chính sách của Bộ Công Thương, có thể tổ chức một số hội nghị lắng nghe ý kiến; tư vấn, hội thảo khoa học, hội nghị... có sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác nhau cũng như sự tham gia của các tổ chức nghiên cứu chính sách.
Thứ tư, cần đặc biệt coi trọng, quan tâm và tăng cường đầu tư, thu hút nhân tài cho hoạt động nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học phục vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển ngành Công Thương. Thực tiễn hoạt động nghiên cứu nhằm cung cấp luận cứ khoa học, phục vụ xây dựng chính sách ở nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới cho thấy, một tổ chức nghiên cứu chính sách cần quan tâm đến 7 yếu tố cơ bản, đó là: tư tưởng, vấn đề, trách nhiệm, chiến lược, nhân tài, mạng lưới và thế mạnh trong lĩnh vực hoạt động.
Thứ năm, tăng cường công tác tổ chức quản lý, thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn ngày càng nghiêm túc, chặt chẽ, nền nếp hơn. Hàng năm, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn hướng vào những vấn đề cơ bản, cấp bách. Đẩy mạnh hoạt động phối hợp với viện, các sở nghiên cứu, ban, ngành, đơn vị trong Bộ trong thực hiện nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn.
Thứ sáu, tăng cường tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học lớn, các chủ đề, lĩnh vực mới nhằm khai thác các giá trị lý luận, giải quyết các vấn đề bất cập, tồn tại của thực tiễn, phát hiện, dự báo được những vấn đề mới nhằm kiến nghị phục vụ kịp thời cho công tác xây dựng, hoạch định chính sách, quản lý của ngành Công Thương.
Thứ bảy, tăng cường đổi mới trong công tác tổ chức, triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm nhằm ngày càng đảm bảo thiết thực và hiệu quả hơn. Chú trọng tìm hiểu, nghiên cứu, thu thập thông tin thực tiễn trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, thực hiện phương châm kết hợp lý luận với thực tiễn cả đối với lĩnh vực công nghiệp và thương mại cả từ Trung ương với địa phương.
Tiếp tục đổi mới và phát triển toàn diện hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đồng thời phục vụ tốt hơn nhiệm vụ cung cấp luận cứ khoa học cho công tác xây dựng, hoạch định chính sách, quản lý của Bộ Công Thương.
Hàng năm, tiến hành xây dựng kế hoạch tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học cấp Nhà nước/cấp Bộ thuộc lĩnh vực được ưu tiên, đồng thời tổ chức triển khai nghiên cứu các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng đảm bảo chất lượng, thiết thực, gắn với chuyên môn và phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng, hoạch định chính sách phát triển và quản lý nhà nước của Bộ Công Thương.
Tích cực đề xuất các nhiệm vụ khoa học và công nghệ và chủ động tham gia nghiên cứu lý luận, thực tiễn; phát hiện và đề xuất các giải pháp đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Công Thương.
Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền; từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng phương tiện và công cụ thông tin của Bộ; xây dựng cơ chế, chính sách để khuyến khích viết các tin; kiểm soát chặt chẽ việc đưa tin, đăng tin và quy định cụ thể, chính sách phù hợp với các quy định hiện hành.
Tạo điều kiện cho việc đăng ký, triển khai nghiên cứu, nghiệm thu các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, góp phần phát triển tư duy khoa học cho viên chức, các nhà khoa học trẻ phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động nghiên cứu các đề tài, đề án lớn, phục vụ cho xây dựng, hoạch định chính sách quản lý của ngành Công Thương,...
TS. Lê Huy Khôi - Bí thư Chi bộ Quản lý khoa học (Bộ Công Thương).

Cùng chuyên mục

Ứng dụng công nghệ số nâng cao hiệu quả kinh doanh và dịch vụ khách hàng

16/04/2024

Với phương châm giúp khách hàng dễ tiếp cận, dễ tham gia, dễ giám sát việc tiêu thụ điện, Công ty Điện lực Thanh Hóa đã đưa ứng dụng công nghệ số vào theo dõi, giám sát điện năng tiêu thụ, qua đó khách hàng có thể chủ động tiết kiệm điện cũng như sử dụng các tiện ích khác.

  • 0
  • 0

giá điện sinh hoạt

Mức sử dụng trong tháng Giá (đồng/kWh)
Bậc 1: Cho kWh từ 0 - 50 1.806
Bậc 2: Cho kWh từ 51 - 100 1.866
Bậc 3: Cho kWh từ 101 - 200 2.167
Bậc 4: Cho kWh từ 201 - 300 2.729
Bậc 5 Cho kWh từ 301 - 400 3.050
Bậc 6: Cho kWh từ 401 trở lên 3.151