Ngày 26/7/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 893/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quyết định nhấn mạnh vai trò của việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, với mục tiêu tiết kiệm năng lượng đạt khoảng 8-10% vào năm 2030 và khoảng 15-20% vào năm 2050 so với kịch bản thông thường.
Trước đó, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 15/5/2023 cũng đã khẳng định giải pháp về sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả là một trong các giải pháp, nguồn lực để thực hiện thành công Quy hoạch này.
Hai Quy hoạch chuyên ngành kể trên đều đặt ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm hiện thực hóa các mục tiêu TKNL đặt ra tại Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và cam kết đưa mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26).
Nguồn lực nào để hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra? Loạt bài 3 kỳ “Vốn đầu tư vào TKNL trong hành trình tiến đến Net Zero” sẽ đi sâu tìm hiểu vấn đề vốn - nguồn lực quan trọng để hiện thực hóa tiềm năng TKNL ở Việt Nam.
Các báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, các ngành công nghiệp hiện đang sử dụng hơn 50% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc. Chỉ tính riêng gần 2.600 cơ sở sản xuất công nghiệp trong danh sách 3.068 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm năm 2021 (theo Quyết định 1480/QĐ-TTg ngày 29/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ) đã chiếm tới 33% tổng lượng điện tiêu thụ toàn quốc. Đáng kể, có những ngành như xi măng, sắt thép đang tiêu tốn quá nhiều năng lượng để cho ra được 1 đơn vị sản phẩm.
Các ngành công nghiệp hiện đang sử dụng hơn 50% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốcDoanh nghiệp quan tâm đến nguồn năng lượng mới
Qua chia sẻ của ông Trịnh Quốc Vũ, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển kinh tế bền vững (Bộ Công Thương), đối với ngành xi măng, để tạo ra được 1 tấn xi măng cần phải tiêu thụ khoảng 80 kWh điện và khoảng 130 kg than. “Chi phí để mua năng lượng tính ra đã chiếm khoảng từ 50-55% giá trị của 1 tấn xi măng thành phẩm. Như vậy ngành sản xuất xi măng thực ra là ngành tiêu thụ năng lượng đến hơn 50% giá thành sản phẩm”, ông Vũ phân tích.
Dẫn chứng này phần nào lý giải vì sao hệ số đàn hồi - tức là hiệu quả sử dụng năng lượng/GDP của Việt Nam - mặc dù đã có bước chuyển đáng kể trong những năm gần đây (đã đưa được từ mức gần 2 xuống còn khoảng 1,3), song vẫn đang còn cao hơn nhiều so với các nước phát triển, kể cả các nước trong khu vực như Thái Lan, Mailaysia…
Để đạt được mục tiêu đưa hệ số đàn hồi về mức 1 (thậm chí dưới 1) sau năm 2030 còn rất nhiều việc phải làm, ở cả tầm vĩ mô - trong việc chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng xanh hóa - nghĩa là giảm dần các ngành tiêu tốn nhiều năng lượng (như xi măng, sắt thép…) sang các ngành sử dụng ít năng lượng hơn (như công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ du lịch…); Đồng thời, đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả hơn trong tất cả các ngành kinh tế, đặc biệt là tại các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm.
Một con số rất đáng lưu ý từ khảo sát của Chương trình Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030, đó là các ngành công nghiệp có thể tiết kiệm từ 20-30% nguồn năng lượng nếu các giải pháp công nghệ TKNL được coi trọng. Các tính toán cũng chỉ ra rằng, khi các cơ sở sản xuất công nghiệp tiết kiệm tối thiểu 2% điện năng tiêu thụ/năm. Theo Chỉ thị 20 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường tiết kiệm điện giai đoạn 2020-2025, mỗi năm cả nước tiết kiệm được hơn 1,4 tỷ kWh, tương đương tiết kiệm khoảng hơn 3.000 tỷ đồng (tính theo giá điện hiện tại).
Để đạt được mục tiêu đưa hệ số đàn hồi về mức 1 sau năm 2030 còn rất nhiều việc phải làmTrên thực tế, thời gian qua rất nhiều DN công nghiệp trọng điểm đã quan tâm đầu tư các giải pháp TKNL nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính doanh nghiệp. Cùng với đầu tư thay thế thiết bị, công nghệ để giảm trực tiếp nguồn năng lượng đầu vào cho sản xuất, DN còn đặc biệt quan tâm tới các nguồn năng lượng mới và tái tạo như điện mặt trời hay thu hồi nhiệt dư để sản xuất điện…
Ông Nguyễn Hữu Thắng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Kỹ thuật và Công nghiệp Việt Nam - Intech Group (đơn vị hoạt động chuyên sâu trong các lĩnh vực cơ khí, tự động hóa và công nghệ) cho biết, đối với những nhà máy mới, việc xử lý năng lượng để đảm bảo liên quan đến môi trường được chú trọng ngay từ đầu. “DN đầu tư những hệ thống điện năng lượng mặt trời để chung tay phát triển năng lượng xanh. Nếu các DN cùng tập trung thúc đẩy, Việt Nam sẽ hoàn thành được mục tiêu, hoàn thành những cam kết với thế giới từ đó chính DN được hưởng lợi, xã hội được hưởng lợi, con người cũng được hưởng lợi ở hiện tại và tương lai”, ông Thắng nói.
Còn theo ông ông Đinh Văn Chung, Phó Giám đốc Công ty CP Thép Hòa Phát Dung Quất, thực tế Hòa Phát đang thu hồi nhiệt dư và khí thải phát ra môi trường, tận dụng lại nguồn nguyên liệu này để phát điện đang đạt trên 70% tổng sản lượng điện DN phải sử dụng và DN đang hướng đến đầu tư cải tạo là đạt trên 80% tổng sản lượng điện.
Doanh nghiệp hướng tới “sản xuất xanh”
Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh: “Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội”. Từ việc sử dụng điện tiết kiệm trong các hộ tiêu thụ để giảm bớt đi một khoản tiền phải trả, tận dụng ánh sáng tự nhiên, thu hồi nhiệt dư, chất thải để tái sử dụng vừa tiết kiệm chi phí, vừa giảm ô nhiễm ra môi trường… đến nay, nhiều DN đã hướng tới “sản xuất xanh”, tham gia vào quá trình chuyển đổi xanh thông qua sử dụng hiệu quả năng lượng - kết hợp đầu tư các giải pháp tiết kiệm năng lượng và phát huy nguồn năng lượng tái tạo tại chỗ.
Kỹ sư Nguyễn Văn Hoàn, Phòng kỹ thuật Công ty TNHH Hitachi Astemo Vĩnh Phúc chia sẻ, trong những năm tới DN sẽ thay thế những hệ thống điều hòa sử dụng công nghệ biến tần, tiết kiệm năng lượng nhằm đảm bảo mục đích chung của công ty là đến năm 2035 sẽ trung hòa được 50% lượng carbon đến năm 2050 sẽ trung hòa 100% lượng cacbon.
Đáng kể như Công ty CP Sữa Việt Nam - Vinamilk, với nguồn lực của 1 DN mạnh, Vinammik hiện có trong tay 1 trang trại, 1 nhà máy đạt trung hòa carbon. Cuối tháng 5 vừa qua, Vinamilk cũng đã công bố lộ trình đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, theo lộ trình vào năm 2027 cắt giảm 15% khí nhà kính, đến năm 2035 cắt giảm 55% khí nhà kính và trung hòa carbon, đến năm 2050 phát thải ròng bằng 0.
Chi phí để hiện thực hóa các tiềm năng TKNL của DN sẽ không hề nhỏ Chia sẻ về quá trình DN tiến hành các dự án chuyển dịch xanh, ông Nguyễn Quốc Khánh, Giám đốc điều hành nghiên cứu và phát triển Vinamilk, Ban chỉ đạo dự án Net Zero Vinamilk cho biết, đây là quá trình và là hành động kép. DN đã cắt giảm lượng phát thải, hấp thụ năng lượng thừa bằng cách tạo ra những bể carbon. Mục tiêu nhằm giảm thải khí nhà kính từ đó giảm biến đổi khí hậu và xóa dấu chân carbon của DN trong quá trình hoạt động.
“Đầu tư cho quá trình này chắc chắn sẽ tốn chi phí nhưng nếu DN có mục đích, có dự án phải tính toán chi phí đầu tư và lợi nhuận thu lại. Theo kinh nghiệm của DN, nếu đầu tư từ sớm chi phí sẽ thấp hơn và lợi nhuận cũng sẽ lớn hơn rất nhiều. Nếu những năm trước DN không thực hiện dự án trồng 1 triệu cây xanh, bây giờ không thể trung hòa được lượng phát thải ra môi trường. Chi phí đầu tư này không chỉ là tiền mà còn là nhân lực, thời gian, đòi hỏi quá trình đầu tư lâu dài và xuyên suốt”, ông Khánh chia sẻ.
Tiềm năng TKNL cũng như thu hồi lượng nhiệt dư, chất thải để tái sử dụng trong các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm là rất lớn. Song, chi phí để hiện thực hóa các tiềm năng này cũng không hề nhỏ. Câu hỏi nguồn vốn ở đâu khi tiềm lực hạn chế? Ưu đãi thế nào khi đầu tư vào các dự án cần thời gian đầu tư dài nhưng lộ trình hoàn vốn không nhanh vẫn luôn được các DN đặt ra.